Thiên can sinh vượng bốn mùa

Thiên can sinh vượng có ngũ dương và ngũ âm (5 can dương và 5 can âm), dương là cương, âm là nhu. Phân ra sinh tử như mẹ sinh ra con, con trưởng thành thì mẹ già chết, là lý tự nhiên. Mẹ Dương sinh con Âm, con Dương do mẹ Âm sinh, Dương sinh dương, Âm sinh Âm thể hiện rõ lý tiêu trưởng của Âm Dương tức Thiên can sinh vượng như vậy.

Giáp mộc 

Đứng đầu thập can, làm chủ tể bốn mùa, sinh dưỡng vạn vật. Ở trên trời là sấm là rồng, ở đất là xà nhà, là đòn dông. Giáp mộc là Dương mộc.

Đứng đầu thập can, làm chủ tể bốn mùa, sinh dưỡng vạn vật. Ở trên trời là sấm là rồng, ở đất là xà nhà, là đòn dông. Giáp mộc là Dương mộc. Lộc đến Dần. Dần là mộc ở trên cao, rễ đã đứt, cành đã tuyệt, gọi là Tử mộc. Tử mộc là cương mộc, cần có búa rìu đẽo gọt mới thành vật dụng. Giáp mộc trường sinh ở Hợi. Hợi là thủy ở sông, đầm, ao hồ, gọi là Tử Thủy (nước tù đọng), Cho nên Tử mộc bỏ vào trong Tử thủy ngâm trong nước lâu năm cũng không thể mục nát.

Nếu Giáp mộc xa rời Nhâm thủy mà gặp Quý thủy, là mưa sương ở giữa trời đất (gọi là Hoạt thủy), dạn dày nắng gió, khô ẩm không điều hòa, trở thành khô mục thì có thể sinh hỏa. Hỏa vượng thì mộc tất phải bị đốt cháy, cho nên có họa tan thành mây khói. Còn Ngọ thuộc Ly hỏa, hỏa dựa vào mộc sinh, mộc là mẹ của hỏa. Tử vượng Mẫu suy, nên Giáp mộc tử ở Ngọ. Mộc không nên ở hướng Nam.

Ất mộc 

Sau Giáp, phát dục vạn vật, sinh sinh không dứt. Ở trên trời là gió, ở dưới đất là cây, gọi là Âm mộc. Lộc đến Mão, Mão là cây cối, rễ sâu cây tốt, gọi là Hoạt mộc tức Nhu mộc. Nhu mộc sợ tai họa dương kim chặt bổ, lại sợ đến mùa Thu cây suy yếu rơi ngã. Cần có Nhuận thổ để bồi căn. Có Hoạt thủy là Quý thủy tức là mưa sương ở trên trời, suối nguồn trong đất mà cành lá sinh sôi. Nhuận thổ là Kỷ thổ, là thổ đất ruộng, có công Giá Sắc.

Kỷ lộc ở Ngọ, Ngọ là Lục Dương tiêu mất, lại sinh Nhất Âm. Ất mộc sinh ở đất Ngọ. Tháng 10 đến Hợi là thuần âm nắm lệnh, Nhâm Lộc đến Hợi nắm quyền. Thổ suy căn hư, mất cơ bồi dưỡng. Cho nên Ất mộc tử ở Hợi.

Bính hỏa 

Dựa vào ở giữa trời, chiếu khắp trên dưới và bốn phương. Trên trời là ánh Thái Dương là tia chớp điện, ở dưới đất là bếp nấu, gọi là Dương hỏa. Lộc ở Tị, Tị là hỏa bếp nấu tức Tử hỏa là Cương hỏa. Hỷ Tử mộc để phát ra ánh sáng, ghét kim, thổ vì che mất ánh sáng. Tử mộc Giáp mộc Lộc ở Dần thành dương mộc. Mộc thịnh hỏa sinh, nhưng ẩn ở giữa thạch mộc, người không thể sử dụng, không thể phát sinh. Ngũ Dương đều xuất ra ở tự nhiên mà thành Tiên thiên, Ngũ Âm đều thuộc ở nhân sự mà thành Hậu Thiên.

Bính hỏa sinh ở Dần, như hỏa Thái Dương từ phương Đông mà lên cao, đến phương Tây mà lặn. Dậu thuộc cung Đoài tức là Trạch, Kỷ thổ sinh kim, kim khí thịnh che mất ánh sáng Bính hỏa. Cho nên Bính hỏa sinh ở Dần mà tử ở Dậu. Hỏa không nên ở hướng Tây.

Đinh hỏa 

Sau Bính hỏa, là Tinh sao của vạn vật, có tượng văn minh. Ở trên trời là tinh tú, ở dưới đất là ngọn đèn dầu, gọi là Âm hỏa. Lộc đến Ngọ, là lấy Lục Âm. Ất mộc có thể sinh Đinh hỏa. Ất là Hoạt mộc, Đinh là Hoạt hỏa tức Nhu hỏa vậy, Đinh Hỷ Ất mộc mà sinh tức âm sinh âm. Dậu là Tứ âm nắm quyền thì đèn sáng, Tinh tú rực rỡ, cho nên Đinh sinh ở Dậu. Dần hợp làm Tam Dương, sinh Dương hỏa, đẩy lui Âm hỏa, như mặt trời từ hướng Đông lên cao, Tinh tú ẩn sáng, đèn dù có lửa nhưng ánh sáng cũng không hiện. Cho nên Đinh sinh ở Dậu mà tử ở Dần. 

Mậu thổ 

Khi trời đất chưa phân thì trong giữ lấy một. Khi trời đất đã phân thì Mậu thổ chở vạn vật, tụ ở trung ương, tán ở bốn góc. Ở trời là bụi, ở đất là núi, gọi là dương thổ. Lộc ở Tị, Tị là lửa ở trong lò vậy, nung luyện thành khí thì khó có âm thanh, tính cương mãnh không thể xúc phạm. Hỷ có dương hỏa tương sinh nhưng sợ âm kim cướp khí. Bính Dương hỏa, là hỏa sinh ở Dần. Dần thuộc cung Cấn tức núi, là Cương thổ, tức Mậu thổ dựa vào Bính hỏa mà sinh ra ở Dần. Dậu thuộc cung Đoài, kim cướp hao tổn khí Mậu thổ, chính là kim thịnh thổ hư, là Mẫu suy Tử vượng. Thêm kim đánh đá vỡ. Cho nên Mậu thổ sinh ở Dần mà tử ở Dậu.

Kỷ thổ 

sau Mậu thổ, là nguyên khí của trời, là chân thổ của đất. Thanh khí thăng lên cao, xung hòa trời đất, trọc khí giáng xuống, tụ sinh vạn vật, gọi là Âm thổ. Thiên – Địa – Nhân là tam tài đều không thể thiếu khuyết ở thổ. Cho nên không có bốn hành Kim – Thủy – Mộc – Hỏa thì không tồn tại. Ở bốn mùa thì gửi vượng ở chỗ này nên là chân thổ. Hỷ Đinh hỏa mà sinh, sợ dương hỏa mà táo. Lộc đến Ngọ, trong Ngọ có Đinh hỏa có thể sinh Kỷ thổ, bị Ất mộc cướp khí bồi gốc.

Dậu Đinh hỏa sinh, ký sinh ở Đinh hỏa. Kỷ thổ cũng sinh ở đây. Đến Dần dụng sự, mộc hỏa nắm quyền, nung luyện Kỷ thổ, liền thành gốm sứ, khí lại mất trung hòa. Cho nên Kỷ thổ sinh ở Dậu mà tử ở Dần. Hỏa táo thổ liệt.

Canh kim 

Nắm quyền cung kính trời đất, chủ thay đổi quyền bính ở nhân gian. Ở trời là gió sương, ở đất là kim loại, gọi là Dương kim. Lộc đến Thân, Thân chính là Cương kim, Hỷ Mậu thổ mà sinh, sợ Quý thủy mà chìm; trường sinh ở Tị, trong Tị có Mậu thổ có thể sinh Canh kim. Chính là dương sinh dương. Tị là lửa trong lò bếp, nung luyện Canh kim, khí liền thành chung đỉnh. Gặp thủy thổ vùi chôn thì không có âm thanh vậy. Đây gọi là Kim thực vô thanh. Tý địa là đất thủy vượng, kim hàn thủy lạnh, là Tử vượng Mẫu suy nên gặp họa chìm sâu. Cho nên Canh kim sinh ở Tị mà tử ở Tý. Kim thẩm thủy để.

Tân kim 

Sau Canh kim. Lấy Ngũ kim là nguồn gốc đá thạch, ở trên trời là mặt trăng, mặt trời, là sao Thái Âm, ở đất là kim loại, kim là quặng mỏ đá, gọi là Âm kim. Lộc đến Dậu, trong Dậu có Kỷ thổ có thể sinh Tân kim, chính là âm sinh âm, gọi là Nhu Kim. Tân kinh Trường sinh ở Tý. Tý là thành của quẻ Khảm thủy. Trong Khảm có kim thuộc Nhất Dương, lại có Nhị Âm thuộc thổ. Thổ có thể sinh kim, tứ Tử ẩn trong bào thai của Mẫu, chưa hiển lộ hình thể. Nếu được Tý thủy mênh mông làm tránh khỏi phù sa thì mới có thể xuất sắc. Tức Thủy giúp Kim sáng.

Tị là lửa trong bếp lò, đem Tân kim luyện thành tử khí. Ở trong Tị lại có Mậu thổ chôn vùi, hình thể không thể biến hóa. Cho nên Tân kim sinh ở Tý mà tử ở Tị vậy tức Thổ trọng kim mai.

Nhâm thủy 

Hỷ dương thổ trợ giúp mà thành bờ đê, nhưng lo sợ âm mộc cướp khí. Ở trên trời là mây, ở dưới đất là đầm hồ, gọi là Dương Thủy. Lộc ở Hợi là thủy ao hồ tồn đọng, tức Tử thủy. Tử thủy là cương thủy, dựa vào Canh kim mà sinh, Canh Lộc đến Thân, có thể sinh Nhâm thủy, là khí ngũ hành chuyển dưỡng. Mão địa là hoa lá của cây cối, mộc vượng ở Mão thì có thể khắc thổ, thổ hư thì sụp đổ, cho nên bờ đê sụp lở, mà đi tiết Nhâm thủy, tán mạn bốn phương. Lưu mà không phản, lại bị âm mộc cướp khí nên Nhâm thủy sinh ở Thân mà tử ở Mão vậy. 

Quý thủy 

Sau Nhâm thủy, chính là khí âm dương tạo thành một vòng thiên can, dần dần hoàn thành mà cuối cùng là quay về ban đầu. Bắt đầu phân lấy thanh trọc tán ra bốn phương, có công nhuận hạ trợ thổ tức là đức sinh sôi vạn vật. Ở trên trời là vũ lộ (mưa sương), ở dưới đất là suối khe đá, gọi là Âm Thủy. Lộc ở Tý, Tý là đất âm cực dương sinh, Tân sinh thành thì Canh tử. Quý là Hoạt thủy, tức là Nhu Thủy vậy, Hỷ âm kim mà sinh, sợ dương kim mà trì trệ, muốn hành âm mộc thì căn có thể khai thông âm thổ. Âm thổ đã thông ở mạch đất thì có thể lưu thông.

Tháng 2 thấy Mão, là hoa quả cây cối, là mộc vượng nhà thổ, Quý thủy mới được thông đạt. Thân địa là Tam Âm dụng sự, quẻ Bĩ nắm quyền, trời đất không giao hòa, vạn vật không thông. Trong Thân có Khôn thổ, Canh kim liền trở thành đê ngăn sông, khiến cho Quý thủy không thể lưu thông, khốn đốn ở hồ nước, không có chỗ thi hành. Quý thủy sinh ở Mão mà tử ở Thân. Thủy không chảy về Tây.

Lý ngũ hành của Thiên can sinh vượng

Ngũ hành trường sinh giống như vạn vật. Ví như giờ ở đầu ngày, quang cảnh trong sáng, đến Ngọ Ly cung, trời sáng càng đậm. Con người sinh ra, trẻ em chỉ biết khóc cười, đến thời kỳ thanh niên thấy rõ hiền ngu. Vạn vật đều giống như vậy.

Thiên can sinh vượng ở bốn mùa dựa theo nguyên lý ngũ hành sinh vượng mà luận. Tất cả chỉ dùng ngũ hành suy xét.

Giáp mộc sinh ở Hợi. Hợi thuộc thủy. Mộc vượng ở mùa xuân, đến Dần là Lâm Quan quy Lộc, Giáp mộc đắc thành. Đến Ngọ thì tử.

Bính hỏa sinh ở Dần. Dần thuộc mộc. Hỏa vượng ở mùa Hạ, đến Tị là Lâm Quan quy Lộc, Bính hỏa đắc thành. Đến Dậu thì tử.

Canh kim sinh ở Tị. Tị có Mậu thổ. Kim vượng ở Thu, đến Thân là Lâm Quan quy Lộc, Canh kim đắc thành. Đến Tý thì tử.

Nhâm thủy sinh ở Thân. Thân thuộc kim. Thủy vượng ở Mùa đông, đến Hợi là Lâm Quan quy Lộc, Nhâm thủy đắc thành. Đến Mão thì tử.

Mậu thổ sinh ở Dần. trong Dần có Bính hỏa. Là mùa Tam Dương, thổ cao lấy động, vạn vật phát sinh. Thổ vượng ở các tháng tứ quý. Hỏa – Thổ có giống như Mẫu Tử tương sinh, cho nên Mậu theo Bính Lâm Quan quy Lộc ở Tị.

Như vậy Thiên can sinh vượng được thể hiện rõ qua từ mùa, ứng với 12 địa chi thời gian và ngũ hành.

Phong thủy Kỳ Bách

Để lại một bình luận