Thập nhị Địa Chi có thể cho ta hiểu rõ thêm về mệnh lý, địa lý mà thanh niên ngày nay đa số là bỏ qua. Tuy nhiên, do tính phức tạp của ngôn ngữ nên những kinh nghiệm của ông bà xưa để lại gần như bị quên lãng. Phong thủy Kỳ Bách xin giới thiệu địa chi và địa lý trích từ những ghi chép nghiên cứu của tiền nhân.
Tý thủy
Tý là Mặc trì (hồ mực). Tý ở chính Bắc phương, thuộc thủy, tượng màu sắc đen, cho nên có tượng Mặc trì. Phàm mệnh gặp sinh năm Tý, thích thấy giờ Quý Hợi, gọi là thủy quy về biển lớn, lại gọi là Song Ngư du mặc, tất thành người văn chương.
Ngọ hỏa
Ngọ là Phong hậu (vọng gác chiến tranh). Ngọ chính vị ở phương Nam, thuộc hỏa, thổ, màu đỏ, vàng nên có tên là Phong hậu. Ngọ là ngựa, Phong hậu chính là xứ sở ngựa chiến. Thấy Thìn là chân Long thì ngựa thường thành ngựa thần nên gọi là Mã hóa Long câu.
Mão mộc
Mão là Quỳnh lâm (Rừng đẹp). Mão thuộc Ất mộc, cư vị trí chính Đông, là ở lúc giữa mùa Xuân, vạn vật sinh ra chỗ này, màu sắc xanh hơi trắng cho nên gọi là Quỳnh lâm. Năm Mão gặp giờ Tị Mùi là Thỏ nhập Nguyệt cung, chủ đại quý.
Dậu kim
Dậu là Tự chung (Chuông chùa). Dậu thuộc kim, vị trí gần Tuất Hợi, Tuất Hợi, là Thiên Môn. Chuông thuộc kim, chuông chùa gõ thì vang vọng đến Thiên Môn. Dậu lại cư chính phương Tây mà chùa thì ở Tây phương Phật giới. Dậu thấy Dần là cát, gọi là Chung minh cốc ứng (chuông vang thì hang núi vọng lại).
Dần mộc
Dần là Quảng cốc (Hang rộng). Dần là Cấn phương, Cấn là núi, Mậu thổ trường sinh vì vậy mà có nghĩa Quảng cốc. Người sinh năm Dần mà có giờ Mậu Thìn, gọi là Hổ khiếu nhi cốc phong sinh (Hổ gầm mà hang núi phát gió), uy chấn vạn dặm.
Thân kim
Thân là Danh đô. Khôn là đất, hình thể không có giới hạn, không phải nói lấy Danh đô là không đủ. Thân là Khôn, là Kinh Đô chỗ ở của đế vương. Cung Thân có Nhâm Thủy sinh, lại đối với cung Cấn núi là thủy quấn vòng quanh núi. Phàm mệnh năm Thân có giờ Hợi, chính là Trời đất giao thái.
Tị hỏa
Tị là Đại dịch (Trạm lớn). Đại dịch (dịch là dịch trạm, không phải bệnh dịch) là chỗ nhiều người tụ hội, là nơi đạo lộ thông suốt. Trong Tị có Bính hỏa Mậu thổ, trước Tị lại có Ngọ mã tức là ngựa, cho nên viết là Đại dịch. Sinh năm Tị thích có được giờ Thìn, là Rắn hóa Rồng bay, ở cách gọi là Thiên lý Long Câu (Ngựa thần đi nghìn dặm).
Hợi thủy
Hợi là Huyền hà. Là Thiên hà thủy, chảy xiết không trở về, cho nên gọi là Huyền Hà, Hợi tức là Thiên Môn, lại thuộc thủy. Người sinh năm Hợi, ngày giờ thấy hai chữ Dần, Thìn, chính làThủy củng Lôi môn.
Thìn thổ
Thìn là Thảo trạch (Đầm cỏ). Nói đến đầm chính là nói đến chỗ của thủy. Thìn là thủy khố ở Đông phương, cho nên là cỏ ở đầm. Thìn gặp Nhâm Tuất, Quý Hợi tức là cách Long quy đại hải.
Tuất thổ
Tuất là Thiêu nguyên (gốc đốt nóng). Tháng Tuất ở cuối mùa Thu, cây cỏ hết suy, nông dân đốt cây cỏ mà cày bừa, Tuất lại thuộc thổ, cho nên xưng danh Thiêu Nguyên, cho nên Tuất cùng chỗ Thìn đếu là chỗ quý nhân không đến. Người sinh Tuất gặp Mão, gọi là Xuân nhập thiêu ngân.
Sửu thổ
Sửu là Liễu Ngạn (Bờ cây Dương Liễu). Trong Sửu có thủy có kim, Ngạn chính là thổ, cho nên ngăn thủy, do đó mà gọi là Liễu Ngạn. Người sinh Sửu thấy giờ Kỷ Mùi, chính là cách Nguyệt chiếu Liễu sao (Mặt trăng chiếu đỉnh nhọn cây Liễu), là cực điểm thượng cách.
Mùi thổ
Mùi là Viên. Mùi thuộc Hoa viên, Mão thì không thuộc vì Mão là mộc vượng. Vượng tất thành rừng núi. Mùi là mộc khố, giống như con người xây bức tường để bảo vệ các loài hoa. Nói trăm hoa là nói trong Mùi có chứa tạp khí. Người sinh năm Mùi là Song Phi cách, rất tốt. Tân Mùi thấy Mậu Tuất, là cách Lưỡng Can bất tạp.
Như vậy, có thể thấy tiền nhân đã rất coi trọng Thập nhị Địa Chi trong địa lý. Dùng tương quan của Ngũ hành sinh vượng, vòng Trường sinh của Thập nhị Địa Chi để giải thích địa lý.
49 Bình luận