Thập can khắc ứng và Bát Môn đại độn

Thập can khắc ứng trong Bát Môn giống Thập can khắc ứng của Kỳ Môn Độn Giáp vì chính là rút từ đó mà ra. Cần nhớ rõ Thập can khắc ứng này để làm cơ sở luận việc.

Thập can khắc ứng trong Bát Môn giống Thập can khắc ứng của Kỳ Môn Độn Giáp vì chính là rút từ đó mà ra. Cần nhớ rõ Thập can khắc ứng này để làm cơ sở luận việc.

Thập can khắc ứng

Lục Giáp ẩn Lục Mậu

Mậu thiên bàn trên Mậu địa bàn gọi là Phục ngâm. Mọi việc đều bế tắc. Giữ tĩnh thì cát.

  • Mậu trên Ất gọi là Thanh Long hợp linh. Được Môn cát thì việc cát, Môn hung thì việc hung.
  • Trên Bính gọi là Thanh Long Phản thủ. Mọi việc làm đều rất lợi. Môn gặp Bách, Mộ, Kích, Hình: việc cát thành hung.
  • Trên Đinh là Thanh Long diệu minh, các việc vào cửa Quý, cầu danh đều cát lợi. Nếu gặp Mộ, Bách thì mang tiếng không hay (thị phi).
  • Trên Kỷ là Quý nhân nhập ngục các việc công tư đều không lợi.
  • Trên Canh là Trực Phù phi cung thì việc cát không được cát, việc hung càng thêm hung.
  • Trên Tân là Thanh Long triết túc. Được cát môn thì còn có thể làm, nếu phải hung môn thì có tai họa, mất tiền tài, mắc tật ở chân.
  • Trên Nhâm là Thanh Long nhập Thiên lao phàm âm dương đều không cát lợi.
  • Trên Quí là Thanh Long Hoa Cái cát cách. Được cách cát thì tốt, được phúc, gặp hung môn thì gặp nhiều biến cố.

Lục Ất trên Lục Mậu

Là lợi âm hại dương. Môn gặp hung bách thì cửa phá người thương.

  • Trên Ất là Nhật kỳ phục ngâm, không nên vào người quý, cầu danh, chỉ nên yên phận thủ thường.
  • Trên Bính là Kỳ Nghi thuận toại, gặp cát tinh thì thăng quan tiến chức, gặp hung tinh thì vợ chồng ly biệt.
  • Trên Đinh là Kỳ Nghi tương tả, việc văn thư thì cát. Trăm việc đều làm được.
  • Trên Kỷ là Nhật kỳ nhập vụ, bị Thổ ám muội, bị đất làm tối tăm. Gặp hung môn tất là hung.
  • Trên Canh là Nhật kỳ bị hình, có kiện cáo nhau tài sản, vợ chồng ý riêng nghi.
  • Trên Tân là Thanh Long đào tẩu, đầy tớ lừa chủ, lục súc bị đau ốm.
  • Trên Nhâm là Nhật kỳ nhập địa, thứ bậc trái loạn, kiện cáo, việc qua, tai tiếng.
  • Trên Quý là Hoa cái Bồng tinh cung, giấu tích, tu đạo, ẩn lánh, tàng hình, chủ yếu để lánh tai nạn thì tốt.

Lục Bính trên Lục Mậu

Là Phi điểu điệt huyệt, mưu làm mọi việc đều chu tất tốt lành.

  • Trên Ất là Nhật Nguyệt tinh hành, việc công việc tư đều cát.
  • Trên Bính là Nguyệt kỳ bột soái, thì văn thư bức bách, phá hao, mất mát.
  • Trên Đinh là Tân Kỳ Chu tước, người quý thì văn thư cát lợi, người thường thì bình tĩnh
  • Trên Kỷ là Thái Bột nhập hình, tu thì bị hình trượng, văn thư không xuôi. Được cát môn thì cát, hung môn thì chuyển hung.
  • Trên Canh là Huỳnh nhập Thái Bạch, cửa nhà phá nát, trộm cắp hao tổn.
  • Trên Tân là mưu sự tựu thành, cầu việc được thành, người bệnh không hung.
  • Trên Nhâm là Hỏa nhập Thiên La, là khách không lợi, tai tiếng cũng khá nhiều.
  • Trên Quý là Hoa cái bột soái, người âm thì hại, tai hoạ sinh dần.

Lục Đinh trên Lục Mậu

Là Thanh Long chuyển quang, người làm quan thì lên chức, người thường thì may mắn.

  • Trên Ất là Nhân độn cách cát. Người quý thì lên quan thêm tước, người thường thì có mừng về hôn nhân, tiền tài.
  • Trên Bính là Tinh tùy Nguyệt chuyển, người quý thì vượt cấp thăng cao, người thường thì trong vui sinh buồn.
  • Trên Đinh là Kỳ nhập Thái Âm thì có văn thư đến, việc mừng vừa lòng.
  • Trên Kỷ là Hoả nhập Câu trận thì vì nữ nhân mà sinh gian tư thù oán.
  • Trên Canh là cách Niên Nguyệt Nhật thời, thì văn thư trở cách, người đi xa tất về.
  • Trên Tân là Chu Tước nhập ngục thì người tội được tha tù, người làm quan mất ngôi.
  • Trên Nhâm là Ngũ thần hổ hợp thì người quý được ơn trời, kiện tụng tù ngục được công bình.
  • Trên Quý là Chu Tước đầu giang thì văn thư khẩu thiệt đều tiêu, tin tức tắt ngủm.

Lục Kỷ trên Lục Mậu

Là Khuyển ngộ Thanh long, được Môn cát thì mưu vọng vừa lòng, người trên thấy thì vui mừng. Môn hung thì uổng tâm cơ khó nhọc.

  • Trên Ất là Mộ thần bất minh. Địa hộ Bồng tinh nên giấu tích ẩn hình thì lợi lắm.
  • Trên Bính gọi là Hỏa Bột địa hộ, người dương oán oán hại nhau, người âm dâm ô.
  • Trên Đinh gọi là Chu tước nhập mộ, tờ văn tờ trạng, giấy tờ kiện cáo, trước cong queo sau thẳng.
  • Trên Kỷ gọi là Địa hộ phùng quỷ, xem bệnh chết, trăm sự đều không vừa ý.
  • Trên Canh là cách Lợi cách phản danh, kiện cáo mà động trước thì không lợi, gặp sao âm thì có tính mưu hại.
  • Trên Tân gọi là Du hồn nhập pháp, người lớn thì quỷ mị ám, người nhỏ thì hồn gia tiên quấy nhiễu.
  • Trên Nhâm là Địa cương cao trương thì trẻ láu cá, gái dâm dật, người gái gian tình giết thương.
  • Trên Quý là Địa hình Huyền vũ, nam nữ tật bệnh sắp nguy, kiện cáo có tai họa tù ngục.

Lục Canh trên Lục Mậu

  • Là Thái Bạch Thiên Ất Phục cung, cực hung, trăm sự đều không thể mưu làm.
  • Trên Ất gọi là Thái bạch Bồng tinh lui thì cát, tiến thì hung.
  • Trên Bính gọi là Thái bạch nhập, xem giặc thì tất đến. Là khách thì có lợi, là chủ thì phá tiền tài.
  • Trên Đinh là cách Đình Đình, vì quen thân mà sinh việc quan tư. Được cát môn thì có cứu.
  • Trên Kỷ gọi là cách, việc quan bị trọng hình.
  • Trên Canh gọi Thái Bạch đồng cung, họa quan nha ngáng trở, anh em oán trách nhau.
  • Trên Tân gọi là Bạch Hổ can cách, đi xa thì xe gẫy, ngựa chết.
  • Trên Nhâm là Viễn hành thất mê đạo lộ, trai gái tin tức sai lạc.
  • Trên Quý là cách Đại, người đi xa về đến, việc quan tư chỉ, sinh sản mẹ con đều hung.
Thập can khắc ứng trong Bát Môn giống Thập can khắc ứng của Kỳ Môn Độn Giáp vì chính là rút từ đó mà ra. Cần nhớ rõ Thập can khắc ứng này để làm cơ sở luận việc.

Lục Tân trên Lục Mậu

  • Là Khôn long bị thương, mắc việc quan tư phá tán, cúi ngửa giữ phận, vọng động thì mắc tai họa.
  • Trên Ất là Bạch Hổ xương cuồng, người chết, nhà bại, đi xa gặp tai nạn. Người tôn trưởng không ưa, xe thuyền đều thương.
  • Trên Bính gọi Can hợp bột soái. Huỳnh hoặc xuất hiện, xem mưa thì không mưa, xem tạnh thì nắng hạn, xem việc thì vì tiền tài mà kiện nhau.
  • Trên Đinh gọi Ngục thân đắc kỳ, Kinh thương thì được bội, người tù thì được tha.
  • Trên Kỷ gọi Nhập ngục tự hình, đầy tớ bội chủ. Kiện tụng không giải bày được.
  • Trên Canh gọi Bạch hổ xuất lực, dao nhọn đấu nhau, chủ khách hại nhau. Nhịn nhường lui gót thì còn  miễn cưỡng lui họa, cố thì máu đào ướt áo.
  • Trên Tân là Phục ngâm, tại sân trời, công thì bỏ, tư thì làm, kiện tụng tù ngục, tự chuốc thêm tội.
  • Trên Nhâm gọi Hung xà nhập ngục, hai trai tranh một gái, kiện tụng không dứt, động trước thì mất lý.
  • Trên Quý gọi Thiên Lao Hoa cái, trời trăng mất sáng, lâm vào lưới, động chủ sai suyển.

Lục Nhâm trên Lục Mậu

Là Tiểu xà hóa Long, trai thì phát đạt, gái sinh con sáng.

  • Trên Ất gọi là cách danh tiểu xà, gái thì hiền ngoan, trai thì than thở. Xem thai; sinh trai, ngưu lộc rực rỡ.
  • Trên Bính gọi Thủy xà nhập hỏa, việc quan, tai nạn liên miên không dứt.
  • Trên Đinh gọi Can hợp xà hình, văn thư dây dưa không dứt, quý nhân  khó gặp.
  • Trên Kỷ gọi Hung xà nhập ngục, họa lớn đang đến, liệu chiều thì lành, kiện cáo đuối lý.
  • Trên Canh gọi Thái Bạch cầm xà, hình ngục công bình, phanh phui tà chính.
  • Trên Tân là Đằng xà tương chiến, ví được cát môn cũng không yên; nếu có mong muốn, bị người lừa dối.
  • Trên Nhâm gọi xà nhập địa la, người ngoài lôi cuốn, việc trong lẩn quẩn. Được cát  môn, cát tinh thì đỡ sai suyễn.
  • Trên Quý gọi là Ấu nữ gian dâm, nhà có tiếng xấu. Cát môn sao hung (chuyển phúc thành họa).

Lục Quý trên Lục Mậu

Là Thiên Ất hội hợp cát cách, có mừng về tiền của, hôn nhân tốt lành có người giúp đỡ thành hợp. Ví phải hung môn, bách chế thì trái lại có họa, có quan phi.

  • Trên Ất gọi là Hoa cái Bồng tinh, người quý ở ngôi Lộc, người thường thì bình yên.
  • Trên Bính gọi là Hoa cái Bột soái, kẻ quý người tiện gặp nhau, người trên thấy thì mừng.
  • Trên Đinh gọi Đằng xà yêu , văn thư quan tư lửa đốt không lối chạy.
  • Trên Kỷ gọi là Hoa cái Địa hộ, nam nữ mà xem tin tức đều trở ngại. Trốn tai lánh họa thì hay.
  • Trên Canh gọi là Thái Bạch nhập võng, lấy sức tranh kiện tụng.
  • Trên Tân gọi cương cái Thiên Lao, xem kiện tội khó tránh, xem bệnh thì bệnh chết.
  • Trên Nhâm gọi Phục kiến Đằng xà,  xem giá thú thì trùng hôn, gả chồng sau thì không con, không được thọ.
  • Trên Quý gọi Thiên cương tứ trương, người đi mất lối, bệnh kiện đều thương.

Tóm lại, Thập can khắc ứng chính là điểm cơ bản của luận việc trong Bát môn độn. Tuy nhiên, việc thuộc Thập can khắc ứng này là một việc khó. Chỉ có cách thực hành thường xuyên mới có thể nhớ được.

Fanpage chính thức trên Facebook luôn được cập nhật tin mới nhất

Chúc các bạn thành công.

Phong thủy Kỳ Bách

Để lại một bình luận