Kiến Trừ thập nhị trực là Kiến, Trừ, Mãn, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thâu, Khai, Bế. Được các tiền triết dùng mười hai ngày này xoay vòng. Hết lại bắt đầu từ đầu, xét xem chỗ nó trực để định cát hung. Kiến, Trừ, Mãn… là mười hai thần, còn gọi là 12 trực, Kiến Trừ 12 khách. Trước xem cát hung tronbg tháng, sau lại dùng xem cát hung cho ngày.
Mỗi tháng vào lúc giao thời có hai ngày trùng trực. Phép này theo Nguyệt kiến mà khởi Tinh kiến, tương ứng váo chỗ đuôi sao Bắc Đẩu chỉ vào. Giả như tháng Giêng là Kiến Dần, ắt ngày Dần khởi sao Kiến. Thuận hành đến 12 sao là đúng.
Trong phong thủy, Việc an bài 12 trực này có liên quan mật thiết đến sao Phá Quân, tức chuôi sao Bắc Đẩu. Tối ngày tiết khí tháng Giêng, Phá Quân chỉ thẳng vào phương Dần, tháng hai chỉ phương Mão… nên gọi là kiến Dần, kiến Mão… Vì tránh 12 trực và 12 tiết hoàn toàn trùng nhau gây nên việc tháng Dần trực Kiến không trùng. Nên mỗi tháng lấy 1 trực cuối của tháng lặp lại trước ngày trực kiến gọi là hòa trực (trực khỉa). Sau một năm, 12 trực lại hoàn toàn trùng với 12 địa chi, Kiến Dần lại trúng vào tháng Giêng.
Ý nghĩa của Kiến Trừ thập nhị trực
Kiến là Tuế quân, chủ của các sao cát hung, có thể ngồi mà không thể hướng vào. Tại sơn, phương nào có cát tinh hội tụ tức là đại cát, hung tinh chất chồng thì là đại hung.
Trừ là Tứ Lợi Thái Dương: Tiểu cát.
Mãn là Thổ Ôn, Tứ Lợi, Tang Môn, còn là Thiên Phú: Tiểu cát.
Bình là Tam Thai, Thổ Khúc: đại cát.
Định là Tuế tam hợp, Hiển Tinh: Cát, nhưng đồng thời cũng là Địa Quan Phù Súc Quan nên là thứ hung.
Chấp là Tứ lợi của Tử Phù, còn là Tiểu Hao: Hung.
Phá là Tuế Phá, Đại Hao: Hung.
Nguy là Cực phú tinh, Cốc tướng tinh, là Tứ lợi của Long Đức tinh: Cát.
Thành là Tam hợp: Cát, nhưng lại là Phi Liêm, lại là Tứ lợi của Bạch Hổ: tiểu hung.
Thâu là Tứ lợi Phúc Đức: tiểu cát, nhưng còn là Bát Tọa: tiểu hung
Khai là Thanh Long, Thá Âm, lại là sinh khí Hoa Cái nên là đại cát,
Bế là Bệnh Phù: Hung.