Cung Mệnh, Tiểu hạn, Thai nguyên trong Tứ trụ

Cung Mệnh, Tiểu hạn, Thai nguyên là những yếu tố quan trọng, cơ bản trong Tứ trụ. Sự vượng suy, các quan hệ hình xung khắc của các yếu tố này ảnh hưởng lớn đến vận mệnh của một người.

Cung mệnh

Cung mệnh có quan hệ đến sự giàu sang, nghèo hèn, thông minh hay ngu dốt. Không có mệnh cung là không có chủ. Cung mệnh trong tứ trụ đối với vận mệnh con người có sự ảnh hưởng rất lớn. Luận giải cần phải xem các quan hệ hình xung khắc hại của cung mệnh với tứ trụ ra sao, mới có thể dự đoán được.

Đầu tiên, cung mệnh nên sinh vượng, không nên suy bại, nên tương sinh, tương hợp, không nên xung hình khắc hại với năm mệnh. Tương sinh tương hợp thì tốt, hình xung khắc hại thì xấu.

Cung mệnh nằm tại 12 cung địa bàn, tương ứng với 12 sao có tính chất khác nhau dưới đây:

Cung Mệnh, Tiểu hạn, Thai nguyên là các yếu tố cơ bản trong Tứ trụ. Ccác quan hệ hình xung khắc của chúng ảnh hưởng lớn đến suy đoán.
Cung Tý:

Sao Thiên Quý, chí khí khác thường, giàu có, thanh cao.

Cung Sửu:

Sao Thiên Ách, trước thì khó khăn, sau thì tốt. Tha hương, tuổi già hưởng phúc.

Cung Dần:

Sao Thiên Quyền, thông minh sắc sảo. Đến tuổi trung niên thì nắm quyền bính.

Cung Mão:

Sao Thiên Xích, khảng khái hào phóng. Tuy nhiên, khi có quyền lực nên giữ khiêm tốn thì tốt.

Cung Thìn:

Sao Thiên Như, việc chồng chất, có mưu tháo vát.

Cung Tỵ:

Sao Thiên Văn, văn chương thành đạt, nữ có chồng tốt.

Cung Ngọ:

Sao Thiên Phúc, vinh hoa mệnh tốt.

Cung Mùi:

Sao Thiên Lao, cuộc đời vất vả, xa quê mới an nghiệp.

Cung Thân:

Sao Thiên Quả, không nên kết hôn sớm, nữ thì cản trở chồng.

Cung Dậu:

Sao Thiên Bí, tính tình cương trực, lắm lúc bị thị phi.

Cung Tuất:

Sao Thiên Nghệ, tâm tính ôn hòa, nổi tiếng về nghệ thuật.

Cung Hợi:

Sao Thiên Thọ, hiền lành sáng suốt, biết kìm nén mình và hay giúp người.

Phương pháp tính cung mệnh:

Tính cung mệnh trên bàn tay như sau:

Từ cung Tý khởi tháng giêng, đếm ngược đến tháng sinh.

Tại tháng sinh, khởi chi giờ sinh, đếm thuận đến Mão. Mão gặp cung nào thì lấy cung đó làm chi cung mệnh.

Tìm can cung mệnh theo can năm sinh.

Thai nguyên

Thai nguyên là tháng bắt đầu mang thai.

Tìm Thai nguyên căn cứ trên can chi tháng sinh:

Lấy can của tháng liền sau tháng sinh phối với chi của tháng thứ 3 sau tháng sinh, đó là Thai nguyên.

Can Thai nguyên là can của tháng sinh tiến 1 cung.

Chi Thai nguyên là chi của tháng sinh tiến 3 cung.

Thai nguyên làm cội nguồn của tứ trụ. Nếu thai nguyên không bị phạm hoặc được gặp đất vượng tướng, Lộc Mã thì đa phúc. Nếu ngày giờ gặp ngôi tốt, nhưng Thai nguyên bị phạm thì tốt cũng như không.

Thai nguyên sinh cho mệnh là tốt, khắc mệnh thì không lợi.

Thai nguyên thấy quý nhân là được âm phúc. Thai nguyên bị hình xung khắc hại là cuộc đời gian khổ. Trong Thai nguyên có lộc là sinh vào giàu sang, còn nếu gặp tuần không là rơi vào đói khổ. Can chi của Thai nguyên và can chi nạp âm của giờ sinh tương sinh lẫn nhau là chủ về sống lâu, nếu hai cái hình xung khắc hại là đoản thọ. Thai nguyên gặp Đế vượng tất sẽ thọ lâu.

Tiểu hạn

Tiểu hạn là tháng hạn của năm đang trải qua.

Cách tìm tiểu hạn:

Lấy chi của năm sinh đặt vào chi của mệnh cung, đếm theo chiều nghịch đến chi của năm hiện tại, ngừng ở vị trí nào đó là chi của tiểu hạn. Căn cứ vào can của năm đang trải qua. Dùng ngũ hổ độn suy ra can của tiểu hạn vừa tìm ra.

VẬN TRÌNH VÀ SẮP XẾP TỨ TRỤ

Lưu niên thái tuế:

Khi đã lập được tứ trụ, biết được nhật can cường nhược và tìm được dụng thần, cần kết hợp với đại vận và lưu niên để xem xét đoán việc.

Đại vận là từng mười năm trong cuộc đời con người. Lưu niên là can chi của năm hiện tại. Chi của lưu niên gọi là Thái tuế.

Mười năm một đại vận, là thiên can luân chuyển mười năm. Thiên can của đại vận ở vào vận tốt, nhưng lưu niên không phải cả mười năm đều tốt. Năm tốt là những năm dụng thần được tốt. Lại có hình xung khắc hại, tốt xấu khác nhau mà có hại hay ích cho dụng thần.

Vì vậy thiên can của đại vận và lưu niên, phải luận sinh khắc, chế hóa cùng với thiên can của tứ trụ thì mới có thể suy ra được giai đoạn, năm phát sinh của sự việc cần dự đoán, địa chi của đại vận và địa chi của lưu niên cùng hỗ trợ dự đoán, có thể làm tăng hay giảm cát hung.

Cần phải lấy quan hệ sinh khắc, hình xung của tứ trụ và lưu niên xem xét. Lấy lưu niên làm chủ, đại vận làm thứ, tiểu vận chỉ là để trợ giúp Thái tuế hay giúp đại vận. Sau đó mới xem hỷ kỵ trong các trụ, nhật chủ và dụng thần của tứ trụ, dùng nó để phán đoán vận hạn.

Phong thủy Kỳ Bách

FanPage Phong thủy Kỳ Bách luôn cập nhật tin mới nhất.

Để lại một bình luận